Thứ Bảy, 6 tháng 3, 2021

Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp


                 





➔ Download  PDF




TỪ BI ÐẠO TRÀNG
SÁM PHÁP
Hiệu Chính: HT. THÍCH TRÍ TỊNH 
Dịch Giả: HT. THÍCH VIÊN GIÁC 
—  —
QUYỂN THỨ NHẤT



QUYỂN THỨ NHẤT
SÁM PHÁP
TỪ BI ÐẠO TRÀNG
Từ Bi Ðạo Tràng, bốn chữ ấy là danh
hiệu của pháp Sám hối này.
Nhân vì cảm thấy Ðức Phật Di Lặc,
rũ lòng từ bi, thương đời hiện tại và đời vị
lai, ứng mộng dạy bảo, đặt tên như thế,
đúng như sự thật, không dám đổi thay.
Nay vâng lời dạy bảo của Ðấng Từ Bi
ấy là vì muốn hộ trì Tam Bảo: Làm cho
ma quân ẩn hình, khiến người tự cao tự
đại và người tăng thượng mạn phải tự
chiết phục; khiến người chưa trồng căn
lành phải trồng căn lành; người đã trồng
rồi, thì làm cho căn lành thêm lớn; khiến
người hay chấp lấy chỗ sở đắc đắm trước
tà kiến, phải phát tâm xả bỏ chấp trước;
khiến người ưa Tiểu thừa không nghi Đại
thừa; người ưa Đại thừa sinh tâm hoan hỷ
Tiểu thừa.
Vả lại, pháp sám từ bi này lớn hơn
tất cả các việc lành khác. Pháp này là chỗ
quy y của hết thảy chúng sanh; như mặt
trời sáng ban ngày; như mặt trăng chiếu
ban đêm. Pháp này là tròng con mắt, là
đạo sư, là cha mẹ, là anh em, là chơn
thiện tri thức của người tu hành, đồng đi
đến đạo tràng.
Pháp sám này thân thích hơn huyết
nhục, đời đời theo nhau, dầu đến chết
cũng không rời nhau. Vì thế nên gọi Pháp
sám này là Từ Bi Ðạo Tràng.
Hôm nay đại chúng ẩn thân hay hiện
hình trong đạo tràng, lập ra Pháp sám
này đều phát đại tâm, vì có mười hai nhân
duyên lớn:
Những gì là mười hai?
1.- Một là nguyện hóa độ sáu đường
chúng sanh không có hạn lượng.
2.- Hai là nguyện báo đáp tứ ân
không có hạn lượng.
3.- Ba là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến chúng sanh thọ cấm
giới của Phật, không sinh tâm hủy phạm.
4.- Bốn là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh, đối
với các bậc tôn trưởng không sinh tâm
kiêu mạn.
5.- Năm là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh,
sinh ra nơi nào cũng không khởi tâm giận
hờn.
6.- Sáu là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh đối
với sắc thân người khác, không khởi tâm
ghen ghét.
7.- Bảy là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh, đối
với các pháp trong thân, ngoài thân,
không sinh tâm keo rít, mến tiếc.
8.- Tám là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh, hễ
làm được phước thiện gì, đều không phải
vì mình mà làm, chỉ vì những người
không có ai ủng hộ, không có ai giúp đỡ
mà làm.
9.- Chín là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh
không vì mình mà tu pháp tứ nhiếp mà
chỉ vì hết thảy chúng sanh.
10.- Mười là nguyện nhờ thần lực của
Pháp sám này, khiến các chúng sanh,
thấy người cô độc, tù tội, tật bệnh, thì
sinh tâm cứu giúp, cho họ an vui.
11.- Mười một là nguyện nhờ thần
lực của Pháp sám này, khiến người tu
hành, thấy có chúng sanh nào đáng chiết
phục thì chiết phục, đáng nhiếp thọ thì
nhiếp thọ.
12.- Mười hai là nguyện nhờ thần lực
của Pháp sám này, khiến các chúng sanh,
sinh ra nơi nào, cũng tự nghĩ nhớ đến sự
phát tâm bồ đề hôm nay, làm cho tâm bồ
đề tương tục mãi mãi không bị gián đoạn.
Ngưỡng mong đại chúng hoặc phàm
hoặc Thánh, hoặc ẩn thân hay hiện hình
trong đạo tràng này, đồng gia tâm phù
hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử
chúng con tên... sám hối được thanh tịnh,
thệ nguyện được thành tựu, tâm đồng
tâm chư Phật, nguyện đồng nguyện chư
Phật. Chúng sanh trong bốn loài, sáu
đường do đó mà được mãn Bồ đề nguyện.

CHƯƠNG THỨ NHẤT
QUY Y TAM BẢO
Hôm nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng mọi người đều nên sinh
tâm giác ngộ; biết đời là vô thường, thân
không sống lâu, trẻ mạnh rồi phải già
yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà không tự
giữ gìn tịnh hạnh.
Vạn vật cũng vô thường thảy đều
tiêu diệt. Trên trời dưới đất, không có vật
gì tồn tại mãi mãi. Lúc còn trẻ, nhan sắc
tốt đẹp, da thịt mịn màng, thơm tho
trong sạch. Nhưng thân này cũng vô
thường. Người sống có hợp có tan. Sinh
già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ
trừ khử khổ ấy cho ta. Tai họa thình lình
đưa đến biết đâu mà tránh, không thể
thoát được. Sang hèn, giàu nghèo, thảy
đều nhân vậy mà chết. Chết rồi thân thể
sình thối không chịu nổi. Vậy luyến tiếc
thân này nào có ích gì. Nếu không lo tu
nghiệp lành thù thắng, thì do đâu, mà
thoát ly sanh tử.
Ðệ tử chúng con tên... tự nghĩ rằng:
Hình tợ sương mai, mạng như nắng
chiều; đời sống mong manh; chưa biết
chết lúc nào. Lại thêm nghèo thiếu,
không có phước đức đáng xưng; không có
trí tuệ sáng suốt, không có hiểu biết như
đại nhân thần thánh; lời nói không tốt
đẹp, không trung hòa, nhân nghĩa, hạnh
kiểm tiến thối không có lễ độ, tôn ty. Nếu
lầm lập chí như vậy, càng thêm mệt nhọc
cho sự tu hành.
Ngưỡng mong đại chúng sanh lòng
hổ thẹn, sợ hãi. Pháp hội này lập có kỳ
hạn, nếu không lo sám hối sau luyến tiếc,
hối hận cũng không thể được.
Từ nay trở đi nguyện phải nỗ lực,
sớm tối chuyên tâm, phụng sự cúng
dường càng thêm tinh tấn . Chỉ có việc ấy
là khoan khoái, cần làm hơn hết.
Ngưỡng mong đại chúng đồng
nghiệp trong đạo tràng, nên phải ân cần,
thận trọng. Phát tâm dõng mãnh, tâm
không buông lung, tâm an trú, tâm quảng
đại, tâm thù thắng, tâm đại từ bi, tâm lạc
thiện, tâm hoan hỷ, tâm báo ơn, tâm tế
độ, tâm giữ gìn hết thảy chúng sanh; tâm
cứu độ hết thảy chúng sanh, tâm đồng
tâm Bồ Tát; tâm đồng tâm chư Phật! Nhất
tâm nhất ý, chí thành đảnh lễ Tam Bảo.
Nguyện xin thay thế quốc vương, đế
chúa, thổ địa, nhân dân, thế cho cha mẹ,
sư trưởng thượng, trung, hạ tòa, thiện ác
tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ thế tứ
vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú,
ngũ phương long vương, long thần bát bộ,
và hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận,
trong mười phương, có tâm linh, có thần
thức, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên khô,
hoặc ở giữa hư không; nguyện thế cho
hết thảy chúng sanh ấy mà.
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy chư Phật. (1 lạy)
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Tôn pháp. (1 lạy)
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nên biết vì cớ gì mà phải
quy y Tam Bảo.
Vì các Ðức Phật, các vị Bồ Tát có
lòng đại từ vô lượng độ thoát thế gian, có
lòng đại bi vô lượng, an ủi thế gian,
thương hết thảy chúng sanh như con đỏ.
Lòng đại từ đại bi ấy thường không
biết mỏi mệt, hằng cầu việc lành lợi ích
cho tất cả; thề dập tắt lửa tham sân si cho
tất cả, giáo hóa khiến cho tất cả đều được
quả Vô thượng Bồ đề. Nếu chúng sanh
không chứng quả Bồ đề. Phật thề không
thành Chánh giác, vì duyên cớ ấy nên đại
chúng cần phải quy y Tam Bảo.
Vả lại, các Đức Phật thương xót
chúng sanh quá hơn cha mẹ thương con.
Trong kinh dạy rằng: “Cha mẹ
thương con chỉ một đời. Phật thương
chúng sanh tâm không cùng tận. Lại nữa
cha mẹ thấy con vong ân bội nghĩa, thì
sinh lòng giận hờn, tình thương giảm
xuống. Phật và Bồ Tát thương chúng
sanh, lòng không như vậy. Thấy chúng
sanh bội nghịch lòng thương của Phật và
Bồ Tát càng tăng lên mãi”.
Các Ngài còn vào trong địa ngục Hỏa
luân, địa ngục Vô gián mà chịu vô lượng
khổ, thế cho chúng sanh.
Vì thế nên biết rằng chư Phật và Bồ
Tát thương xót chúng sanh hơn cha mẹ
thương con. Vậy mà chúng sanh vì vô
minh che lấp trí huệ, phiền não che lấp
tâm tánh, đối với Phật và Bồ Tát không
biết quay đầu lại mà quy y, không biết
ngưỡng mộ. Thuyết pháp giáo hóa, chúng
sanh cũng không tin, không chịu mà còn
thô lỗ, phỉ báng, chưa từng phát tâm
niệm ơn Phật.
Vì chúng sanh không tin nên đọa
vào đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc
sinh; khắp trong ba đường ác ấy, chịu vô
lượng khổ.
Tội hết được ra, tạm sinh làm người,
tai mắt không đủ, thân thể xấu xa, không
tu thiền định, không tu trí huệ.
Chúng sanh có những quả báo
chướng ngại như vậy là do không có lòng
tin.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng biết tội không tin nặng
hơn các tội, khiến người tu hành lâu
không thấy Phật.
Hôm nay đại chúng tự phải cùng
nhau khắn khái tu hành, chiết ý tỏa tình,
sinh tâm tăng thượng, khởi lòng hổ thẹn,
cúi đầu cầu xin sám hối tội cũ. Nghiệp lụy
hết rồi, trong ngoài thanh tịnh, sau mới
vận tâm quay về đức tín, phát lòng tin
tưởng Tam Bảo. Nếu không khởi tâm như
vậy, vận tưởng như vậy, sợ lòng tin phải
cách tuyệt, chướng ngại khó thông. Một
khi đã mất nẻo xu hướng, thì mờ mịt
không biết về đâu? Vậy thì chúng con
không thể không tin mà phải đầu thành
đảnh lễ quy y Tam Bảo, không dám nghi
ngờ.
Ðệ tử chúng con tên... nay nhờ sức
từ bi của chư Phật, chư đại Bồ Tát mới
mong hiểu biết, rất lấy làm hổ thẹn.
Những tội đã làm nguyện xin trừ diệt.
Những tội chưa làm không dám làm nữa.
Từ nay trở đi, cho đến ngày thành
Phật, khởi lòng tin kiên cố, không dám
thối lui.
Xả thân này hoặc sinh vào địa ngục,
hoặc sinh vào ngạ quỷ, hoặc sinh vào súc
sinh, hoặc sinh làm người, hoặc sinh làm
trời, ở trong ba cõi, hoặc thọ nam thân,
hoặc thọ nữ thân, hoặc thọ phi nam phi
nữ thân v.v... hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc lên
hoặc xuống, chịu đủ khổ não, không thể
chịu nổi, chúng con xin thề: Không vì khổ
ấy mà thối mất lòng tin ngày nay.
Thà chịu bao nhiêu khổ lụy trong
muôn ngàn ức kiếp, Chúng con xin thề:
Không vì khổ mà thối mất lòng tin hôm
nay.
Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ Tát,
đồng gia tâm cứu hộ, đồng gia tâm nhiếp
thọ, khiến đệ tử chúng con tên... tín tâm
được kiên cố đồng như tâm của chư Phật,
đồng như nguyện của chư Phật, tà ma
ngoại đạo không thể phá hoại tín tâm của
chúng con.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một
lòng that thiết, đầu thành đảnh lễ:
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy chư Phật.
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Tôn Pháp.
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng hãy lắng lòng mà nghe.
Than ôi! Cõi Trời, cõi người đều
huyễn hoặc, thế giới là giả dối.
Do vì huyễn hoặc, không chân thật,
nên kết quả cũng không chân thật. Giả
dối mong manh nên biến hóa vô cùng.
Kết quả không chơn, sở dĩ phải chìm
đắm mãi trong vòng sanh tử. Biến hóa
không cùng, sở dĩ phải trôi lăn hoài trong
biển ái khổ đau. Thấy chúng sanh đau
khổ như vậy, Phật rất thương xót.
Kinh Bi Hoa dạy rằng: “Các vị Bồ Tát
thành Phật đều có bổn nguyện”.
Ðức Thích Tôn không hiện thân sống
ở đời lâu dài, thọ mạng Ngài ngắn ngủi là
vì thương chúng sanh cõi này, sống yểu
uổng trong nháy mắt rồi chết, như biến
hóa, chìm mãi trong biển khổ không ra
được. Vì thế nên Phật ở cõi này cứu
chúng sanh tệ ác, phải tạm dùng lời cứng
rắn khổ khắc, thiết tha mà dạy bảo. Ngài
ở trong biển khổ, cứu độ chúng sanh,
chưa từng khi nào không lưu tâm đến sự
hoằng hóa, tế độ, lợi ích cho chúng sanh,
bằng cách ứng dụng thiện pháp làm
phương tiện.
Sở dĩ Kinh Tam Muội dạy rằng: “Tâm
chư Phật là tâm Đại từ bi; chỗ tâm từ bi
của Phật soi đến là chỗ chúng sanh đau
khổ”.
Phật thấy chúng sanh chịu khổ não
như tên bắn vào lòng Phật, như phá tròng
mắt Phật. Thấy rồi thương xót, tâm
không tạm yên. Cho nên Phật muốn diệt
khổ ngay cho chúng sanh được an vui.
Lại nữa, trí huệ của chư Phật là trí
huệ bình đẳng, nên Phật hóa độ chúng
sanh cũng bình đẳng như Đức Thích Tôn
ai cũng xưng Ngài là Ðấng Bình đẳng.
Ngài dõng mãnh, chịu khổ độ thoát
chúng sanh, cho nên biết ân đức Bổn sư
rất nặng.
Ngài hay ở trong khổ não thuyết
pháp, lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
Ngày nay chúng sanh không được giải
thoát là vì trước kia không nghe được âm
thanh vi diệu của Phật thuyết pháp; về
sau không thấy được Phật Niết bàn.
Chúng sanh vì nghiệp chướng ngăn che
nên xa cách lòng thương của Phật.
Bây giờ, chúng con hãy cùng nhau
sinh tâm thương tiếc. Vì thương tiếc nên
thiện tâm nồng hậu, ở trong đau khổ
chúng con nhớ ơn chư Phật , kêu cầu
thảm thiết, ảo não khóc lóc, chí thành
đảnh lễ. Năm vóc sát đất, nguyện vì quốc
vương và quyến thuộc của quốc vương,
thổ địa, nhân dân, phụ mẫu, sư trưởng,
tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư
thiên, chư tiên, thông minh, chánh trực,
thiên địa hư không, hộ thế tứ vương, chủ
thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương
long vương, long thần bát bộ, cùng khắp
hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận trong
mười phương mà:
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy chư Phật. (1 lạy)
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Tôn pháp. (1 lạy)
- Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
(Toàn thể đều quỳ chắp tay tâm niệm
và tiếp tụng):
- Chư Phật đại Thánh tôn,
Thấu rõ hết thảy pháp,
Ðạo sư của Trời người,
Cho nên nguyện quy y.
- Tôn Pháp tánh thường trú,
Thanh tịnh Tu đa la
Hay trừ bệnh thân tâm,
Cho nên nguyện quy y.
- Ðại địa chư Bồ Tát
Vô trước tứ Sa môn
Hay cứu hết thảy khổ,
Cho nên nguyện quy y.
- Tam Bảo cứu thế gian,
Vì sáu đường chúng sanh,
Con nay xin đảnh lễ,
Quy y thế cho tất cả.
- Từ bi che hết thảy,
Khiến đồng được an vui.
Thương xót cả muôn loài
Chúng con đồng quy y.
(Mọi người đều đảnh lễ sát đất và tự
niệm rằng):
Nguyện xin hết thảy mười phương
Tam Bảo đem từ bi lực, bổn thệ nguyện
lực, bất tư nghị lực, vô lượng tự tại lực, độ
thoát chúng sanh lực, phù hộ chúng sanh
lực, an ủi chúng sanh lực. Ðem những
năng lực ấy khiến các chúng sanh đều
giác ngộ, chúng con tên... ngày nay vì các
chúng sanh ấy mà quy y Tam Bảo.
Chúng con xin nhờ công đức này có
năng lực khiến các chúng sanh ấy đều
được mãn nguyện.
Nếu các chúng sanh ấy hoặc ở trong
loài Trời, loài Tiên thì được sạch hết
nghiệp hữu lậu.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài A
tu la thì khiến họ xả bỏ tánh kiêu mạn.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài
người thì khiến cho hết khổ đau.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong các
loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì khiến
cho liền được giải thoát.
Lại nữa, ngày nay người nào nghe
được danh hiệu của Tam Bảo, và người
không nghe được, cũng nhờ thần lực của
Phật mà được giải thoát, hoàn toàn thành
tựu Vô thượng Bồ đề, đồng với các đại Bồ
Tát thành bậc Chánh giác.

CHƯƠNG THỨ HAI
DỨT NGHI NGỜ
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng lắng lòng mà nghe. Luận
rằng:
Nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau, cảm
ứng tương sinh; đạo lý tự nhiên như vậy
không sai lầm. Nhưng về hạnh nghiệp của
chúng sanh, mỗi người một khác không
giống nhau, nên quả báo cũng không
giống nhau; hoặc tinh thô, hoặc sang hèn,
hoặc thiện, hoặc ác sai khác muôn vàn.
Ðã có sai khác thì không rõ nguyên nhân
sự sai khác ấy do đâu. Vì không rõ nên
sinh ra nghi ngờ, lầm lạc. Hoặc nói người
tinh tấn tu hành, giữ giới trong sạch,
đáng lẽ được sống lâu, sao lại chết sớm.
Người hàng thịt (đồ tể) đáng lẽ chết sớm
sao lại sống lâu. Người thanh liêm đáng lẽ
được giàu sang, sao lại thấy nghèo thiếu.
Người tham lam trộm cướp, đáng lẽ
nghèo thiếu khốn khổ, sao lại giàu có
phong lưu!
Nghi ngờ sai lầm như vậy ai cũng có
nghĩ đến không tránh khỏi. Do vì không
rõ việc của mình đã làm từ bao kiếp
trước, hột giống của mình đã gieo đều
không thuần, nên ngày nay đem lại kết
quả bất nhất như vậy.
Kinh Bát Nhã dạy rằng: “Nếu người
nào đọc tụng kinh này, bị kẻ khác khinh
chê, là vì người ấy đời trước có tội nghiệp
nặng, đáng đọa vào đường ác. Ngày nay
nhờ người khinh chê nên tội nghiệp đời
trước được tiêu diệt”.
Bởi chúng sanh không hết lòng thâm
tín lời Phật dạy, mới có tâm nghi ngờ.
Chúng sanh bị vô minh mê hoặc, chê lấp
tâm tánh nên luống sinh tâm nghi ngờ
điên đảo như vậy.
Chúng sanh lại cũng không tin: Còn
ở trong ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui.
Những người thường say đắm thế gian
đều cho đời là vui.
Chúng ta thử hỏi:
Nếu đời thật là vui, cớ sao trong tâm
biết vui ấy lại có tâm biết khổ.
Ăn uống quá độ liền sinh tật bệnh:
Ban sởi, ho hen, khí tức, cổ trướng, đau
đớn, khó chịu.
Nói đến y phục, càng thấy khổ nhiều.
Lạnh được áo mỏng thì bạc ơn người cho,
lòng nghĩ nông nỗi.
Nắng được áo kép, lông chiên, khổ
não càng nhiều. Nếu y phục là vui, cớ sao
lại sinh khổ não.
Nếu cho gia đình quyến thuộc là vui,
lẽ ra cùng nhau vui mãi, hoan lạc ca cười
không dứt, cớ sao thoặt vậy vô thường,
qua đời trong nháy mắt! Vừa có đó liền
không đó. Sớm còn tối mất, kêu trời van
đất, can trường đoạn đoạn ! Chúng sanh
lại cũng không tự biết mình từ đâu đến
đây? Chết rồi đi đâu. Người còn khóc kẻ
mất, ôm lòng thương xót, tống táng đưa
nhau, thẳng đến sơn cùng, chắp tay vĩnh
biệt, nhất từ vạn kiếp, đau đớn biết bao !
Những điều như vậy, sầu khổ vô lượng,
chúng sanh mê chấp, cho đó là vui.
Trái lại, gây nhân vui xuất thế,
chúng sanh đều cho việc ấy là khổ.
Thấy người trai giới, tương dưa, nuôi
thân qua buổi, không mặc lụa là, quen
bận phấn tảo ăn mặc nâu sồng, chúng
sanh đều cho các việc ấy là tự ép xác,
khốn khổ, không biết làm như thế là gây
nhân giải thoát, gieo giống an vui.
Hoặc thấy người bố thí trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, kinh hành lễ bái, tụng tập
chuyên cần, chúng sanh đều cho là khổ;
không biết làm như vậy là tu tâm xuất
thế, để được an vui.
Thoảng hoặc thấy có người tật bệnh
là chết, liền sinh tâm nghi rằng: Người ấy
bắt buộc thân tâm này làm việc quá độ,
trọn ngày không được tạm nghỉ. Sức lực
con người không thể nào kham nổi. Nếu
người tu hành không siêng năng khó
nhọc thì đâu đến nỗi luống mất thân
mạng với việc làm vô ích như vậy.
Hoặc có người chấp chặt lý thuyết
của mình, tự cho mình là đúng, chứ
không biết suy quả tầm nhân, luống sinh
tâm mê chấp, luống làm việc sai lầm.
Nếu may gặp được thiện tri thức thì
có thể hết mê lầm. Nếu không may, gặp
phải bạn ác thầy tà thì si mê càng lắm.
Nhân vì nghi ngờ mê hoặc nên đọa
vào ba đường ác, ở trong ấy, ăn năn không
kịp.
Hôm nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nên hiểu rõ.
Phàm nghi ngờ như vậy có vô lượng
nhân duyên.
Vả chăng hột giống nghi ngờ lầm lạc
ấy, tu hành thoát ra khỏi ba cõi luân hồi
còn chưa hết, huống gì thân phàm phu
này làm sao trừ ngay cho được. Ðời này
không lo đoạn trừ, đời sau càng thêm.
Ðại chúng cùng nhau vừa mới tu tập,
đường hãy còn dài, tự tu khổ hạnh, nên
căn cứ vào lời Phật dạy, đúng pháp mà tu,
không nên nghi ngờ, từ chối sự mệt nhọc.
Chư Phật Thánh nhân, sở dĩ ra được
khỏi sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia, là
nhờ công tích thiện, nên được quả giải
thoát vô ngại tự tại.
Chúng con ngày nay chưa lìa khỏi
sanh tử, nghĩ cũng tự đáng thương; làm
sao còn ham muốn ở trong đời ác trược
này nữa. Nay đây may được tứ đại chưa
suy đồi; ngũ phước còn thạnh, tới lui
thong thả, động chuyển tự do mà không
nỗ lực tu hành, còn đợi gì nữa. Ðời trước
đã không thấy đạo; đời này cũng luống
qua, không chứng ngộ gì, thì đời sau làm
sao tế độ chúng sanh.
Xem lại tự tâm, thật cũng đau lòng.
Ngày nay đại chúng chỉ nên khuyên nhau
nỗ lực siêng tu, không nên nói rằng, phải
có tin tức chứng ngộ gì mới chịu tu tập;
vì Phật đạo lâu dài, không thể một mai
mà làm xong được. Nếu cứ chờ tin tức,
như vậy một mai rồi lại một mai thì biết
bao giờ chứng quả.
Nay hoặc có người nhân tụng kinh,
ngồi thiền, siêng tu khổ hạnh, hơi có chút
tật bệnh liền nói: Vì tụng tập siêng năng
khổ hạnh quá nhiều nên sinh bệnh hoạn.
Người nói như thế là vì họ không tự biết.
Nếu họ không làm như vậy thì cũng đã
chết sớm mất rồi. Nhờ tu hành có phước
đức mới mong sống đến hôm nay.
Vả lại, bốn đại tăng giảm tật bệnh là
thường, cho đến già chết còn không thể
tránh. Sinh ở thế gian này chung cuộc rồi
ai cũng tận số. Nếu muốn được đạo, phải
y lời Phật dạy mà tu. Trái lời Phật mà đắc
đạo thì không có lẽ ấy.
Chúng sanh vì trái lời Phật nên xoay
chuyển trong ba đường chịu đủ thống
khổ. Nếu đúng như lời Phật dạy mà tu
hành không thôi nghỉ, siêng năng tinh
tấn, như cứu lửa cháy đầu, thì đâu đến
nỗi một đời luống qua, không có lợi ích
gì. Mọi người cùng nhau nhất tâm tha
thiết, đầu thành đảnh lễ như Thái Sơn đổ,
nguyện vì những người sau đây mà đảnh
lễ thế cho họ.
Kể từ khi có tâm thức cho đến ngày
nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp,
Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng,
thượng trung hạ tòa, tín thí đàn việt,
thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ
thế tứ thiên vương, chủ thiện, phạt ác,
thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương,
long thần bát bộ khắp đến mười phương
vô cùng vô tận, hết thảy chúng sanh mà
quy y Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Duy Vệ Phật.
Nam mô Thi Khí Phật.
Nam mô Tùy Diệp Phật.
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật.
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
Nam mô Ca Diếp Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện
xin Tam Bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm
nhiếp thọ; dùng sức thần thông che chở
cứu vớt chúng con; khiến chúng con từ
nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tứ vô
lượng tâm, lục ba la mật thường được
hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông
lực được như ý tự tại; tu đạo Bồ Tát, vào
trí huệ Phật, hóa độ mười phương, thành
bậc Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng lại khéo nhiếp tâm, suy
nghĩ cho kỹ: Ðã được cùng nhau sinh lòng
tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy điều
ấy làm nẻo xu hướng đối với các pháp
trong thân ngoài thân chớ cho trở ngại.
Nếu không biết rõ việc lành hay tự
mình không thể làm thì lúc thấy người
làm việc phước thiện, chỉ nên khuyến
khích, chắp tay tán thán công đức của
người, không nên sinh tâm trở ngại,
khiến người tu hành phải thối chí.
Nếu người không thối chí họ cứ tinh
tấn như thường, việc người không giảm,
chỉ mình bị tổn phước, luống gây thị phi,
đối với bản thân nào có ích gì? Nếu đối
với việc lành mình không trở ngại thì có
thể gọi là hợp đạo, hữu lực đại nhân. Nếu
đời này mình hay trở ngại việc phước
thiện của người thì đời sau làm sao thông
đạt được Phật đạo.
Có lý mà suy, tổn hại ấy rất nặng.
Trở ngại thiện căn của người, tội ấy rất
lớn.
Như Kinh Hộ Khẩu dạy rằng:
Có một Ngạ quỷ thân hình xấu ác,
thấy phải rùng mình, không ai không sợ.
Thân xuất lửa dữ như đám cháy lớn.
Trong miệng có sâu dòi rúc ra mãi mãi,
máu mủ tanh hôi, đầy cả thân hình, mùi
thối bay ra, không ai có thể đến gần.
Miệng khạc ra lửa, thân phần lửa đốt, cất
tiếng kêu khóc, tuôn chạy cùng khắp.
Bấy giờ, có ngài Mãn Túc La Hán hỏi
Ngạ quỷ rằng:
- Xưa kia ngươi mắc phải tội gì mà
nay chịu khổ như thế?
Ngạ quỷ đáp rằng:
- Tôi ngày xưa đã từng làm Sa môn,
tham đắm sự nuôi sống, xan tham không
bỏ, không giữ oai nghi, nói lời thô ác. Nếu
thấy người giữ giới tinh tấn lại liền mắng
nhiếc, liếc mắt háy nguýt, ỷ mình giàu
mạnh, tưởng sống lâu không chết, tạo ra
vô lượng tội ác căn bản. Ngày nay nhớ lại,
hối hận cũng không ích gì. Thà cầm dao
bén tự cắt lưỡi mình, kiếp này sang kiếp
khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói
một lời phỉ báng việc lành của người.
Nguyện xin ngài trở về dương thế, đem
hình trạng xấu ác của tôi răn dạy các
thầy Tỳ kheo và các Phật tử, khéo giữ gìn
lỗ miệng, chớ buông lời nói ác. Dầu thấy
người giữ giới hay không giữ giới cũng
nên tuyên dương công đức của người.
Tôi làm quỷ đói đã vài ngàn kiếp,
trọn ngày thâu đêm, chịu đủ điều đau
khổ. Quả báo này hết rồi lại vào địa ngục.
Bấy giờ, Ngạ quỷ nói lời ấy rồi, cất
tiếng kêu khóc, tự gieo mình xuống đất
như núi Thái Sơn sụp đổ.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nghe lời kinh dạy như
vậy rất đáng sợ hãi.
Chỉ vì lỗi của miệng mà mang tội
nhiều kiếp, huống nữa là còn bao nhiêu
điều ác khác. Xả thân này thọ thân khác
mà chịu khổ đều do nghiệp ác của mình
đã làm. Nếu không gây nhân thì làm sao
lại có chịu quả. Ðã gây nhân quyết định
phải chịu trả quả. Tội phước không xa,
mình làm mình chịu, như bóng theo hình,
không thể rời nhau. Do vô minh mà sinh
thì cũng do vô minh mà diệt. Ðời này đời
sau, bao giờ cũng vậy, chưa từng thấy
người tu hành buông lung, lười biếng mà
được giải thoát. Trái lại, người hay tinh
tấn giữ gìn tu hành, được phước đức vô
lượng.
Ngày nay đại chúng đều nên biết hổ
thẹn rửa sạch thân tâm, sám hối tội cũ.
Tội cũ hết rồi, không gây thêm tội mới
nữa thì được các Đức Phật khen ngợi.
Cùng nhau từ nay trở đi, nếu thấy người
làm thiện, chớ nói thành hay không
thành, lâu hay không lâu. Dầu cho họ chỉ
làm lành trong một niệm, một thời, một
khắc, một ngày, một tháng, nửa năm, hay
một năm cũng đã hơn người không làm.
Sở dĩ Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Hoặc
có người tâm tán loạn vào trong tháp
miếu, xưng một câu Nam mô Phật, người
ấy cũng đã thành Phật đạo”. Huống nữa
có người phát tâm rộng lớn, siêng làm
phước thiện. Nếu chúng ta không tùy hỷ
thì Thánh nhân rất thương xót.
Chúng con tên... tự nghĩ mình từ vô
thỉ trở lại cho đến ngày nay lẽ ra cũng đã
có vô lượng ác tâm trở ngại việc lành tốt
đẹp của người. Vì sao mà biết? Nếu không
như vậy, cớ sao ngày nay việc lành của
chúng con phần nhiều hay bị trở ngại.
Thiền định không hay tập, trí huệ không
hay tu. Vừa mới lễ bái liền nói khổ lắm.
Vừa cầm đến kinh liền sinh nhàm chán.
Trọn ngày chỉ ưa khó nhọc làm các
nghiệp ác khiến cho thân này không được
giải thoát, như tầm kéo kén, tự ràng, tự
buộc, như phù du vào lửa, tự thiêu tự đốt.
Những chướng ngại ấy vô lượng vô biên,
chướng Bồ đề tâm, chướng Bồ đề nguyện,
chướng Bồ đề hạnh, chướng ngại như vậy
đều do ác tâm, phỉ báng việc thiện của
người. Nay mới giác ngộ, rất là hổ thẹn,
cúi đầu cầu xin sám hối tội ấy.
Nguyện xin chư Phật, chư Ðại Bồ
Tát, đem lòng từ bi, đồng gia thần lực
khiến đệ tử tên... những điều sám đều
được trừ diệt, những đều hối đều được
thanh tịnh. Vô lượng chướng ngại, vô
lượng tội nghiệp đều nhờ sám hối này mà
được sạch hết.
Mọi người cùng nhau nhất tâm
thống thiết năm vóc sát đất, quy y thế
gian Ðại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Thiện Ðức Phật.
Nam mô Vô Ưu Ðức Phật.
Nam mô Chiên Ðàn Ðức Phật.
Nam mô Bảo Thí Phật.
Nam mô Vô Lượng Minh Phật.
Nam mô Hoa Ðức Phật.
Nam mô Tướng Ðức Phật.
Nam mô Tam Thừa Hạnh Phật.
Nam mô Quảng Chúng Ðức Phật.
Nam mô Minh Ðức Phật.
Nam mô Sư Tử Du Hí Bồ Tát.
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại xin quy y như vậy mười phương
tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
(Cùng nhau quỳ gối chắp tay, tâm
niệm và tụng tiếp):
Ðệ tử chúng con tên... từ vô thỉ trở
lại cho đến ngày nay, chưa thể đắc đạo,
thọ lấy báo thân này vì tham bốn món
cúng dường chưa từng xả bỏ. Tham sân
tật đố, ba độc hừng hẫy sinh ra các ác
nghiệp. Thấy người bố thí, trì giới, tự
mình không thể làm, không hay tùy hỷ.
Thấy người nhẫn nhục tinh tấn, tự mình
không thể làm, không hay tùy hỷ. Thấy
người tọa thiền, tu nghiệp trí huệ, tự
mình không thể làm, không hay tùy hỷ.
Những tội như vậy, vô lượng vô biên ngày
nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến
ngày nay, thấy người làm lành, tu các
công đức không hay tùy hỷ, đi đứng nằm
ngồi, trong bốn oai nghi ấy không biết hổ
thẹn, không nghĩ vô thường, không biết
xả thân này phải vào địa ngục.
Ðối với sắc thân người khác, khởi ra
điều ác. Chướng ngại người xây dựng và
cúng dường Tam bảo, chướng ngại người
tu tập hết thảy công đức.
Tội chướng như vậy vô lượng vô biên
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến
ngày nay không tin Tam Bảo là chỗ quy y,
chướng ngại người xuất gia, chướng ngại
người trì giới, chướng ngại người bố thí,
chướng ngại người nhẫn nhục, chướng
ngại người tinh tấn, chướng ngại người
tọa thiền, chướng ngại người tụng kinh,
chướng ngại người làm chay, chướng ngại
người tạo tượng, chướng ngại người cúng
dường, chướng ngại người khổ hạnh,
chướng ngại người hành đạo, cho đến
mảy may việc thiện của người chúng con
cũng chướng ngại. Không tin xuất gia là
pháp viễn ly, không tin nhẫn nhục là
hạnh an lạc, không biết bình đẳng là đạo
Bồ đề, không biết xa lìa vọng tưởng là
tâm xuất thế. Vì những tội ấy cho nên
ngày nay sinh ra nơi nào cũng gặp nhiều
chướng ngại. Tội chướng như vậy, vô
lượng vô biên, chỉ có chư Phật, chư Ðại
Bồ Tát mới thấy hết biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ Tát đã thấy
đã biết, tội lượng nhiều ít, ngày nay hổ
thẹn, tỏ bày sám hối, tất cả tội nhân, khổ
quả, nguyện xin trừ diệt. Từ nay trở đi
cho đến ngày thành đạo tu đạo Bồ Tát,
không biết nhàm chán. Tài thí, pháp thí
không cùng, không tận, trí huệ phương
tiện làm gì cũng được. Hết thảy người
thấy, người nghe đều được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, đầu
thành đảnh lễ, năm vóc sát đất nguyện
xin mười phương hết thảy chư Phật, chư
Ðại Bồ Tát hết thảy Hiền Thánh, rũ lòng
từ bi, đồng gia thần lực, làm cho hết thảy
chúng sanh trong sáu đường, nhờ sức
sám hối này mà đoạn trừ được hết thảy
tội khổ, xa lìa được hết thảy duyên điên
đảo, không sinh ác tâm, xả nghiệp bốn
thú phát sanh trí huệ, tu đạo Bồ đề không
thôi không nghỉ; hạnh nguyện chóng viên
mãn, mau lên ngôi Thập địa, vào tâm Kim
cang thành Đẳng Chánh giác.

CHƯƠNG THỨ BA
SÁM HỐI
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng lắng tai nghe kỹ lời kinh
dạy sau đây:
Còn phàm phu thì gọi là buộc. Ðã
chứng quả Thánh thì gọi là giải.
Buộc tức là kết quả ác do hành động
bạo ác của ba nghiệp ác đã gây ra. Giải
tức là quả báo lành vô ngại giải thoát của
ba nghiệp lành đã gây ra.
Hết thảy Thánh nhân đều để lòng
nơi đạo giải thoát, và nhờ thần thông trí
huệ, vô lượng pháp môn, nên Thánh nhân
thấy hết thảy nghiệp báo thiện hay ác của
tất cả chúng sanh.
Các ngài hay dùng một thân hiện ra
vô lượng thân, hay dùng một hình hiện ra
vô lượng hình; có thể rút ngắn một kiếp
làm một ngày; có thể kéo dài một ngày
làm một kiếp. Muốn đình thọ mạng thì
vĩnh viễn không diệt độ; muốn thị hiện
vô thường thì nhập Niết bàn; thần thông
trí huệ, vào ra tự tại bay đi tùy ý, ngồi
nằm trên không. Ði đứng dưới nước như
ở trên khô, không thấy nguy hiểm. Lấy
cảnh vắng lặng, viên tịch Niết bàn làm
chỗ nghỉ ngơi, thông đạt vạn pháp, có,
không đều rõ biết, biện tài thành tựu, trí
huệ vô ngại.
Những pháp lành ấy không phải từ
trong nghiệp ác mà ra, không phải từ
trong tham sân tật đố mà ra, không phải
từ trong ngu si tà kiến mà ra, không phải
từ trong lười biếng mà ra, không phải từ
trong kiêu mạn, tự cao tự đại mà ra. Các
pháp lành ấy chỉ trừ trong sự thận trọng
không làm ác mà ra, các pháp lành ấy đều
do các nghiệp lành mà ra.
Không nơi nào có người tu các
nghiệp lành, vâng lời Phật dạy mà mắc
phải ác báo, bần cùng xấu xa tàn tật, bệnh
hoạn, không được tự do, thấp hèn bị kẻ
khác khinh chê, lời nói không ai tin dùng
bao giờ.
Nay đem thân tôi để làm chứng (lời
tác giả). Nếu có người nào vâng lời Phật
dạy, tu các công đức, không ích kỷ hại
nhân mà bị quả báo xấu ác thì thà để tôi
bị đọa vào A tỳ địa ngục chịu thống khổ,
chớ để cho người làm lành kia chịu quả
báo xấu ác thì phi lý.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng muốn bỏ phàm làm
Thánh thì nên y lời Phật dạy, như lý mà
tu hành. Không nên từ chối một việc khổ
nhỏ mà sinh tâm lười biếng nên tự nỗ lực
cố gắng sám hối cho tiêu tội lỗi.
Trong kinh Phật dạy: “Tội do nhân
duyên mà sinh thì cũng do nhân duyên
mà diệt”.
Ðang còn thân phàm thì gặp cảnh
sinh mê tâm. Vậy ngoài phương pháp sám
hối ra, không có phương pháp nào hơn
nữa để mong giải thoát.
Ngày nay đại chúng phải cùng nhau
phát khởi tâm dõng mãnh, phát khởi ý
sám hối.
Sức mạnh của pháp sám hối không
thể nghĩ bàn. Vì sao mà biết? Vì vua A Xa
Thế phạm đại tội ngũ nghịch, nhưng sau
vua biết sinh tâm hổ thẹn, tự trách, tự ăn
năn, nên tội nặng thành nhẹ.
Vả lại pháp sám hối này khiến người
tu hành được an vui. Nếu có người nào tự
mình hay định thời khóa, nỗ lực hết lòng,
khấu đầu lễ bái, sám hối, quy y cho đến
khi hoàn toàn trong sạch mà không cảm
được mười phương Phật thì không có lý.
Ác nghiệp và quả báo theo nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau, không sai mảy may, cho
nên phải hết lòng sợ hãi, cố gắng chịu
khổ mà sám hối.
Mọi người đều nên một lòng tha
thiết gieo mình xuống đất như núi Thái
Sơn sụp đổ, tâm niệm miệng nói lời này,
để cầu thỉnh mười phương chư Phật gia
tâm thương xót.
Nguyện xin chư Phật cứu chúng con
ra khỏi khổ ách; rũ lòng đại bi che khắp
tất cả. Phóng hào quang thanh tịnh, soi
khắp mười phương; diệt sạch mê mờ và
trừ si ám. Nghĩ đến chúng con và các
chúng sanh đang bị đọa đày trong địa
ngục đau khổ. Xin Phật đến đây cứu vớt
chúng con. Ban bố hạnh phúc cho chúng
con được thoát khổ.
Chúng con nhất tâm đầu thành đảnh
lễ đấng Ðại Từ bi, nghe tên liền cứu khổ.
Nay chúng con nhất tâm quy y đấng Thế
gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật.
Nam mô Bảo Quang Phật.
Nam mô Long Tôn Vương Phật.
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật.
Nam mô Tinh Tấn Hỷ Phật.
Nam mô Bảo Hỏa Phật.
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật.
Nam mô Hiện Vô Ngu Phật.
Nam mô Bảo Nguyệt Phật.
Nam mô Vô Cấu Phật.
Nam mô Ly Cấu Phật.
Nam mô Sư Tử Phan Bồ Tát.
Nam mô Sư Tử Tác Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện
xin Tam Bảo quyết định đến đây cứu vớt
chúng con, đang bị đọa đày bởi tham sân
si, làm đau khổ, nguyện cho chúng con
được an vui và được đại Niết bàn; nguyện
xin lấy nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho
chúng con được thanh tịnh mau chứng
quả Bồ đề. Bốn loài chúng sanh trong sáu
đường, nếu có một chúng sanh nào mắc
phải tội lỗi, đều được nhờ Tam Bảo mà
thanh tịnh; đều được thành tựu quả Vô
thượng bồ đề, thành bậc Chánh giác,
hoàn toàn giải thoát.
Ðại chúng cùng nhau một lòng tha
thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng
nói lời này:
Ðệ tử chúng con tên... từ vô thỉ trở
lại cho đến ngày nay, bị vô minh che lấp
tâm tánh, bị ái nhiễm ràng buộc, nên tinh
thần sa vào lưới ngu si, loanh quanh ba
cõi, cùng khắp sáu đường, chìm đắm bể
khổ, không có ngày ra; không thể biết
được nghiệp đời trước của mình, không
thể hiểu được nhân duyên đã qua. Hoặc
mình tự phá tịnh mạng và phá tịnh mạng
của người. Mình tự phá phạm hạnh và
phá phạm hạnh của người. Mình tự phá
tịnh giới và phá tịnh giới của người.
Tội ác như vậy vô lượng vô biên,
ngày nay hổ thẹn sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ sát đất cầu xin sám hối, những tội
lỗi từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do
thân khẩu ý tạo ra mười ác nghiệp.
Thân sát, đạo, dâm, miệng nói láo,
nói lời thêu dệt, nói lời hai lưỡi, nói lời
độc ác, ý tham sân si. Mình tự làm mười
điều ác, dạy người làm mười điều ác,
khen ngợi người làm mười điều ác. Như
vậy trong một khoảnh khắc trong một
niệm tâm, khởi ra bốn mươi điều ác.
Những tội như thế vô lượng vô biên,
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí tâm
đảnh lễ sát đất cầu xin sám hối những tội
từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay.
Nương nơi sáu căn rồi phát ra sáu
thức, chấp lấy sáu trần. Mắt đắm sắc, tai
ưa tiếng, mũi trước hương, lưỡi ưa vị,
thân ưa trơn láng, mịn màng, ý ưa pháp
trần. Sáu căn ấy sinh ra bao nhiêu tội
nghiệp, mở cửa cho tám vạn bốn ngàn
trần lao. Tội ác như vậy vô lượng vô biên
ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ, cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân,
khẩu, ý gây ra nhiều nỗi bất bình, như chỉ
biết có thân mình, không biết có thân
người, chỉ biết có mình khổ, không biết
có người khổ, chỉ biết có mình cầu an vui,
không biết có người cầu an vui, chỉ biết
có mình cầu giải thoát, không biết có
người cầu giải thoát, chỉ biết có gia đình
mình, có quyến thuộc mình, không biết
có gia đình người, có quyến thuộc người,
chỉ biết thân mình hơi ngứa một chút, hơi
đau một chút đã chịu không nổi, thế mà
khi làm cho thân người khác đau thì sợ
họ không đau, ít đau, không thấm thía,
chỉ biết sợ khổ một chút nơi đời hiện tại
mà không biết sợ khổ vô lượng kiếp nơi
đời vị lai. Bởi vì làm ác chết rồi phải đọa
vào địa ngục, chịu đủ thống khổ, cho đến
không biết sợ khổ vô lượng trong đường
ngạ qủy, trong đường súc sanh, trong
đường A tu la.
Cõi người và cõi trời cũng có vô
lượng thống khổ mà không tự biết, chỉ vì
tâm không bình đẳng, có phân bỉ ngã, có
niệm oán thân, làm cho oán thù tràn
khắp lục đạo.
Những tội như vậy vô lượng vô biên,
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ trở lại cho đến ngày nay, do tâm điên
đảo, do tưởng điên đảo, thấy biết điên
đảo, nên thường xa lìa bạn lành (thiện tri
thức) gần gũi bạn ác, trái nghịch bát
chánh đạo, tu theo bát tà đạo, phi pháp
nói chánh pháp, chánh pháp nói phi
pháp, bất thiện nói là thiện, thiện nói là
bất thiện, dựng cờ kiêu mạn, giăng buồm
ngu si, theo dòng vô minh vào biển sanh
tử.
Những tội như vậy vô lượng vô biên
ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ trở lại cho đến ngày nay, vì tham sân
si khởi ra bốn điên đảo, tạo nên năm tội
nghịch, làm đủ mười ác, ba độc hừng hẫy,
tâm khổ càng nhiều, gieo giống địa ngục
bát hàn, bát nhiệt; gieo giống tám vạn
bốn ngàn ngăn cách địa ngục, gieo giống
súc sanh, gieo giống ngạ quỷ, gieo giống
sinh già bệnh chết, ưu bi khổ não ở cõi
trời cõi người để chịu quả báo đau khổ,
không thể kể xiết, không thể chịu được,
không thể thấy được, không thể nghe
được.
Những tội ác như vậy, vô lượng vô
biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ
diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì ba
độc tham sân si ở trong ba cõi, trải khắp
hai mươi lăm loài khởi ra các tội ác, cùng
khắp mọi nơi, thuận chiều gió nghiệp mà
không tự biết. Hoặc chướng ngại người
trì giới, tu định, tu huệ, tu các công đức,
tu các thần thông. Những tội chướng như
vậy vô lượng vô biên, chướng Bồ đề tâm,
chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề
hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì tâm
tham sân si, phát khởi ra sáu thức, duyên
theo sáu trần, gây tội cho chúng sanh.
Hoặc đối với chúng sanh mà khởi tội;
hoặc đối với phi chúng sanh mà khởi tội;
hoặc đối với người vô lậu mà khởi tội;
hoặc đối với pháp vô lậu mà khởi tội.
Những tội ác như vậy vô lượng vô
biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Lại nữa, chúng con vì tâm ngu si mà
khởi hạnh điên đảo, tin theo thầy tà, thọ
lời tà giáo, chấp đoạn, chấp thường, trước
ngã, trước kiến, làm theo si mê, khởi ra
vô lượng tội lỗi.
Những nhân duyên ấy chướng Bồ đề
tâm, chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề
hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, thân ba
nghiệp ác, miệng bốn nghiệp ác, ý ba
nghiệp ác, vô thỉ vô minh trú địa phiền
não, hằng sa thượng phiền não , chỉ
thượng phiền não, quán thượng phiền
não, tứ trú địa phiền não, tam độc, tứ thủ,
ngũ cái, lục thọ, thất lậu, bát cấu, cửu
kiết, thập sử. Những phiền não ấy vô
lượng vô biên, hay chướng Bồ đề tâm, hay
chướng Bồ đề nguyện, hay chướng Bồ đề
hạnh, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ
diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, không
hay tu tâm từ bi, không hay tu tâm hỷ xả,
không hay tu tâm bố thí, không hay tu
tâm trì giới, không hay tu tâm nhẫn
nhục, không hay tu tâm tinh tấn, không
hay tu tâm thiền định, không hay tu tâm
trí huệ, không hay tu hết thảy pháp trợ
Bồ đề.
Vì thế, nếu không có phương tiện,
không có trí huệ, làm chướng ngại Bồ đề
tâm, chướng ngại Bồ đề nguyện, chướng
ngại Bồ đề hạnh, ngày nay sám hối,
nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô
thỉ kiếp cho đến ngày nay, vì tội nghiệp
nên cứ xoay vòng trong ba cõi, trải khắp
sáu đường, thọ thân bốn loài, hoặc nam
hoặc nữ, hoặc phi nam phi nữ, cùng khắp
mọi nơi tạo vô lượng tội. Hoặc làm chúng
sanh thân hình to lớn ăn nuốt lẫn nhau;
hoặc làm chúng sanh thân hình bé nhỏ ăn
nuốt lẫn nhau. Những tội sát hại như vậy
vô lượng vô biên hay chướng Bồ đề tâm,
hay chướng Bồ đề nguyện, hay chướng Bồ
đề hạnh. Ngày nay sám hối nguyện xin
trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên... lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ khi
có tâm thức trở lại cho đến ngày nay, ở
trong sáu đường, thọ thân bốn loài. Ở
trong bốn loài ấy tạo ra vô lượng vô biên
tội ác.
Những tội ác như vậy, chỉ có hết
thảy chư Phật, chư đại Bồ Tát trong mười
phương mới thấy hết biết hết. Tội lượng
nhiều ít hoặc khinh hoặc trọng như chư
Phật và Bồ Tát đã thấy đã biết. Ngày nay
chí thành cúi đầu đảnh lễ, hổ thẹn cầu
xin sám hối.
Những tội đã làm, nguyện tiêu diệt
hết, những tội chưa làm, không dám
phạm.
Ngày nay chúng con nguyện xin hết
thảy chư Phật trong mười phương rũ lòng
đại từ cho đệ tử chúng con tên... thành
tâm sám hối, nguyện xin đem nước đại bi
rửa sạch tội lỗi sai lầm cho chúng con
được hoàn toàn thanh tịnh, thẳng đến
đạo tràng không bị chướng ngại nữa.
Lại nguyện xin hết thảy mười
phương chư Phật dùng bất tư nghị lực,
bổn thệ nguyện lực, độ thoát chúng sanh
lực, phù hộ chúng sanh lực, khiến đệ tử
tên... ngày nay khởi thệ nguyện, phát tâm
Bồ đề.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành
Phật kiến lập đạo tâm được kiên cố, hoàn
toàn không trở lại sa đọa nữa.
Những lời thệ nguyện của chúng con
cũng đồng như lời thệ nguyện của chư
Phật, chư đại Bồ Tát đã thật hành thệ
nguyện. Nguyện xin hết thảy mười
phương chư Phật, chư đại Bồ Tát đồng rũ
lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ cho
chúng con tên... được như sở nguyện,
mãn Bồ đề nguyện. Hết thảy chúng sanh
cũng đều được như sở nguyện, mãn Bồ đề
nguyện.
TỪ BI ÐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ NHẤT
HẾT